Tố Hữu là ai?
--- Nguyễn Kim Thành, thường được biết đến với bút danh Tố Hữu (4 tháng 10 năm 1920 – 9 tháng 12 năm 2002), là một cố nhà thơ kiêm chính trị gia người Việt Nam. Ông đã từng giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng (Nay là Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ) nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Thông tin chi tiết
--- Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. (tháng 11/2022) (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này) Bài viết này hiện đang gây tranh cãi về tính trung lập. Có thể có thảo luận liên quan tại trang thảo luận. Xin đừng xóa bảng thông báo này cho đến khi kết thúc hoặc đạt được đồng thuận trong vấn đề này. (tháng 3/2022) (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này) Tố Hữu Chức vụ Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Bộ trưởng Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ nuớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nhiệm kỳ7 tháng 2 năm 1980 – 21 tháng 6 năm 1986 6 năm, 134 ngàyChủ tịch (Thủ tướng)Phạm Văn ĐồngTiền nhiệmPhó chủ tịch Thường Trực Đầu tiên.Kế nhiệmVõ Chí CôngVị trí Việt Nam Ủy viên Bộ Chính trị khóa IV, V Nhiệm kỳ20 tháng 12 năm 1976 – 21 tháng 6 năm 1986 9 năm, 183 ngày Ủy viên Dự khuyết Bộ Chính trị khóa IV Nhiệm kỳ1976 – 1980 Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nhiệm kỳ1968 – 1982Tiền nhiệmTrường ChinhKế nhiệmBùi Thanh Khiết Chủ nhiệm Văn phòng Văn giáo Chính phủ Nhiệm kỳ1960 – 1/1963Tiền nhiệmđầu tiênKế nhiệmLê Liêm Bí thư Trung ương Đảng khóa II, III, IV Nhiệm kỳ1958 – 1980 Thông tin cá nhân Quốc tịchViệt NamSinh(1920-10-04)4 tháng 10, 1920 Quảng Điền, Thừa Thiên Huế, Trung Kỳ, Liên bang Đông DươngMất9 tháng 12, 2002(2002-12-09) (82 tuổi) Hà Nội, Việt NamNghề nghiệpnhà thơ, chính kháchDân tộcKinhĐảng chính trịĐảng Cộng sản Việt NamVợVũ Thị ThanhHọc vấnTrường Quốc học Huế Tố Hữu Nghề nghiệpNhà thơ, chính kháchNgôn ngữTiếng ViệtQuốc tịchViệt NamDân tộcKinhGiáo dụcTrường Quốc học HuếGiai đoạn sáng tác1936-2002Thể loạiThơ cách mạngChủ đềCách mạngTrào lưuPhong trào Thơ mớiTác phẩm nổi bậtTừ ấy, Việt BắcGiải thưởng nổi bậtGiải thưởng Hồ Chí Minh Huân chương Sao vàngPhối ngẫuVũ Thị ThanhCon cái(3) Nguyễn Thanh Hoa (con gái cả) Nguyễn Vũ Phương (con trai thứ) Nguyễn Minh Hồng (con gái út)Nguyễn Kim Thành, thường được biết đến với bút danh Tố Hữu (4 tháng 10 năm 1920 – 9 tháng 12 năm 2002), là một cố nhà thơ kiêm chính trị gia người Việt Nam.
Ông đã từng giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng (Nay là Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ) nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nguồn gốc bút danh Tố Hữu
[sửa | sửa mã nguồn]Theo lời Tố Hữu tự giải thích về bút danh của mình thì năm 1938, ông sang Lào thăm một người anh. Ở đây ông gặp một cụ đồ người Quảng Bình. Cụ đồ đã đặt cho ông bút danh "Tố Hữu" , lấy từ câu nói của Đỗ Thị "Ngô nhi tố hữu đại chí" (吾兒素有大志). Tố Hữu có nghĩa là "sẵn có, ý chỉ khí phách tiềm ẩn trong người". Tố Hữu nhận tên gọi này nhưng hiểu theo nghĩa là "người bạn trong trắng"
Thời niên thiếu
[sửa | sửa mã nguồn]Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành. Ông sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại thành phố Huế, là con út trong gia đình. Đến năm 9 tuổi, ông cùng cha trở về sống tại làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, thành phố Huế. Cha ông là một nhà nho nghèo, không đỗ đạt và phải kiếm sống rất chật vật nhưng lại thích thơ, thích sưu tập ca dao tục ngữ. Ông đã dạy Tố Hữu làm thơ cổ. Mẹ ông cũng là con của một nhà nho nghèo nhưng thuộc nhiều ca dao dân ca Huế và rất yêu thương con. Cha mẹ đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tố Hữu.
Mẹ ông mất vào năm ông lên 12 tuổi. Năm 13 tuổi, ông vào trường Quốc học Huế. Tại đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng của Karl Marx, Friedrich Engels, Vladimir Ilyich Lenin, Maksim Gorky,... và qua sách báo, kết hợp với sự vận động của các đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu), Nguyễn Kim Thành sớm tiếp cận với lý tưởng cộng sản. Năm 1936, ông gia nhập Đoàn thanh niên Dân chủ Đông Dương..
Hoạt động cách mạng
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1938, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 4/1939, ông bị bắt, bị tra tấn dã man và đày đi nhà lao Thừa Phủ (Huế) rồi chuyển sang nhà tù Lao Bảo (Quảng Trị) và nhiều nhà tù khác ở Tây Nguyên. 3/1942, ông vượt ngục Đắc Glêi (nay thuộc Kon Tum) rồi tìm ra Thanh Hóa, bắt liên lạc với Đảng (về hoạt động bí mật ở huyện Hậu Lộc và thôn Tâm Quy, xã Hà Tân, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa). Đến năm 1945, khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên – Huế.
Năm 1946, ông là Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước:
- 1948: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam.
- 1952: Giám đốc Nha Tuyên truyền và Văn nghệ thuộc Thủ tướng phủ.
- 1954: Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền.
- 1963: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam.
- Tại đại hội Đảng lần II (1951): Ủy viên dự khuyết Trung ương; 1955: Ủy viên chính thức.
- Tại đại hội Đảng lần III (1960): vào Ban Bí thư.
- Tại đại hội Đảng lần IV (1976): Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương, Phó Ban Nông nghiệp Trung ương.
- Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị.
- 1981: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng (nay gọi là Phó Thủ tướng) cho tới 1986. Ngoài ra ông còn là Bí thư Ban chấp hành Trung ương.
Trong thời gian phụ trách mảng văn nghệ, ông là người đã phê phán quyết liệt Phong trào Nhân văn – Giai phẩm (1958). Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng ban Thống nhất Trung ương, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng ban Khoa giáo Trung ương. Ông còn là Đại biểu Quốc hội khóa II và VII.
Năm 1969, ông được giao là người sửa cuối cùng bản điếu văn trong tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tố Hữu đã dùng ngòi bút và tâm huyết của mình để giúp cho bản điếu văn hay hơn, đi vào lòng người hơn:
- Bản dự thảo viết: '"Thưa đồng bào, thưa các đồng chí và các bạn". Tố Hữu sửa lại thành: "Thưa đồng bào và chiến sĩ cả nước, thưa các đồng chí và các bạn".
- Bản dự thảo viết: "Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa! Tổn thất lớn lao này không gì bù đắp được". Tố Hữu sửa lại thành: "Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa! Tổn thất này vô cùng lớn lao, đau thương này thật là vô hạn".
- Bản dự thảo viết: "Phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc mất một chiến sĩ lỗi lạc, một người bạn chiến đấu kiên cường và thân thiết". Tố Hữu sửa lại thành: "Phong trào cộng sản quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và cả loài người tiến bộ mất một chiến sĩ lỗi lạc, một người bạn chiến đấu kiên cường và thân thiết".
- Bản dự thảo viết: "Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sản sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng vĩ đại, và chính người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta". Tố Hữu bỏ chữ "sản", trở thành: "Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng vĩ đại, và chính người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta".
Sau năm 1986, Việt Nam tiến hành Đổi mới nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế. Do phải chịu một phần trách nhiệm trong những vụ khủng hoảng tiền tệ những năm 1980 nên ông bị miễn nhiệm các chức vụ về quản lý hành chính, chỉ còn giữ chức danh đại biểu quốc hội và các chức danh lãnh đạo về lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (giải thưởng cao nhất về văn học tại Việt Nam) ngay trong đợt xét tặng đầu tiên (năm 1996).
Ông qua đời lúc 9 giờ 15 phút 7 giây, ngày 9 tháng 12 năm 2002 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch.
Đóng góp văn học
[sửa | sửa mã nguồn]Ở Tố Hữu có sự thống nhất đẹp đẽ giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ, giữa lý tưởng trong trái tim và những câu thơ trên đầu bút. Chặng đường thơ của Tố Hữu là chặng đường lịch sử của cả một dân tộc. Ông được coi là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến, được tôn vinh là "nhà thơ của cách mạng", "nhà thơ của nhân dân", "ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam", "người có công đầu xây dựng nền thơ ca cách mạng Việt Nam", "một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng - Nghệ thuật - Tình yêu", "nhà thơ của chủ nghĩa nhân văn cách mạng".
Trong 2 cuộc kháng chiến, Tố Hữu đã sáng tác rất nhiều bài thơ để cổ vũ tinh thần cho chiến sĩ và nhân dân, gắn liền với suốt chiều dài lịch sử kháng chiến. Nổi tiếng nhất là những bài thơ như Việt Bắc, Lượm, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Việt Nam máu và hoa, Từ Cu-ba,...
Thơ Tố Hữu thanh đạm, dịu ngọt, thấm sâu vào tâm hồn mọi thế hệ, từ người "đã ngã xuống cánh rừng trai trẻ" hay "người đến với thơ ông suốt thời thơ ấu" (nhận xét của Nguyễn Khoa Điềm), được lưu giữ và phát huy như một sức mạnh tinh thần, một giá trị văn hóa tiềm ẩn trong con người thời đại Hồ Chí Minh.
Các tác phẩm chính
[sửa | sửa mã nguồn]- Từ ấy (1937 – 1946), 72 bài thơ
- Việt Bắc (1947 – 1954), 26 bài thơ
- Gió lộng (1955 – 1961), 25 bài thơ
- Ra trận (1962 – 1971), 35 bài thơ
- Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973)
- Máu và Hoa (1972 – 1977), 13 bài thơ
- Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981)
- Một tiếng đờn (1978 – 1992), 74 bài thơ
- Ta với ta (1992 – 1999)
- Nhớ lại một thời (hồi ký, 2000)
- Một khúc ca xuân (thơ, 1977)
Bài thơ tiêu biểu của ông
[sửa | sửa mã nguồn]- Bác ơi
- Bà má Hậu Giang
- Bài ca xuân 1961
- Bài ca quê hương
- Bầm ơi!
- Con cá chột nưa
- Có thể nào yên?
- Đi đi em!
- Đời đời nhớ Ông
- Đợi anh về (tập thơ dịch, 1998)
- Em ơi... Ba Lan
- Gặp anh Hồ Giáo
- Hai đứa trẻ
- Hồ Chí Minh
- Hãy nhớ lấy lời tôi
- Hoa tím
- Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
- Kính gửi cụ Nguyễn Du
- Khi con tu hú
- Lao Bảo
- Lạ chưa
- Lượm
- Mẹ Suốt
- Mẹ Tơm
- Mồ côi
- Một tiếng đờn
- Miền Nam
- Mưa rơi
- Năm xưa
- Sáng tháng Năm
- Stalin! Stalin!
- Emily, con ơi
- Ta đi tới
- Ta với ta
- Từ ấy
- Tâm tư trong tù
- Tương tri
- Theo chân Bác
- Tiếng chổi tre
- Tiếng hát sông Hương
- Tiếng ru
- Với Lênin
- Vườn nhà
- Việt Bắc (thơ, 1954)
- Việt Nam máu và hoa
- Xuân đang ở đâu...
- Xuân đấy
- Một khúc ca xuân**
Phong tặng và Giải thưởng văn học
[sửa | sửa mã nguồn]- Giải nhất Giải thưởng Văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955 (tập thơ Việt Bắc).
- Giải thưởng Văn học ASEAN của Thái Lan năm 1996 cho tập thơ Một tiếng đờn.
- Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật (đợt 1, 1996).
- Huân chương Sao Vàng (1994).
- Nhiều giải thưởng, danh hiệu khác...
Sự kiện rắc rối sau khi ông mất
[sửa | sửa mã nguồn]Ông qua đời năm 2002 vì bệnh nặng. Bài phỏng vấn Tố Hữu với tựa đề: "Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng" của Nhật Hoa Khanh được công bố sau khi ông mất đã gặp phải sự phản đối từ gia đình ông. Vào tháng 4 năm 2004, tài liệu này bắt đầu được phổ biến trong giới văn nghệ, báo chí tại Việt Nam. Vào tháng 5 năm 2004, báo Quân đội nhân dân trích đăng 3 kì một số đoạn từ tài liệu này với nhan đề "Tố Hữu" và "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" (kì số 3 vào ngày 7/5/2004). Ngoài ra bài này cũng được đăng thành nhiều phần nhỏ trong các báo khác như Nhân dân, Tiền Phong Chủ Nhật, Người Hà Nội... Nội dung bài phỏng vấn có nhắc tới các sự kiện văn hóa trước đây như Nhân văn-Giai phẩm, phong trào sáng tác thơ văn cách mạng, ông Tố Hữu có những lời ca ngợi những người này.
Bài phỏng vấn thực hiện năm 1997, nhưng đến khi phổ biến thì bị bà Vũ Thị Thanh, vợ của Tố Hữu, phủ nhận và cho đó là những tài liệu giả mạo, đã "pha chế nhiều ý kiến riêng, mượn danh Tố Hữu, biến Tố Hữu thành người phát ngôn cho ý mình". Bà yêu cầu cơ quan chức năng vào cuộc để điều tra làm rõ sự giả mạo của tài liệu này, nhưng ông Nhật Hoa Khanh nói có đầy đủ băng ghi âm ghi lại cuộc nói chuyện của ông với Tố Hữu. Bài phỏng vấn là thực hay giả chưa rõ, nhưng thực tế nó đã được nhiều tờ báo chính thống ở Việt Nam đăng lên. Sau đó sự kiện này không được các cơ quan báo chí, văn nghệ nhắc tới nữa.
Bị xuyên tạc thơ
[sửa | sửa mã nguồn]Trên mạng internet sau này đã lan truyền những câu thơ được cho là của Tố Hữu: "Lửa trường kỳ kháng chiến! / Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ / Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong / Cho đảng bền lâu / Thờ Mao chủ Tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt". Dựa vào những câu thơ này, họ tuyên bố rằng Tố Hữu là người độc ác, nhẫn tâm, thậm chí là sùng Tàu ("thờ Mao Chủ tịch"), sùng Liên Xô một cách mù quáng ("thờ Xít-ta-lin bất diệt") .
Thực ra, bài thơ "Bài ca tháng 10" sáng tác năm 1950 của Tố Hữu không hề có những câu thơ như vậy, bài thơ này kết thúc như sau: "Hoan hô Hồ Chí Minh / Cây hải đăng mặt biển / Bão táp chẳng rung rinh / Lửa trường kỳ kháng chiến!", toàn bộ những câu thơ sau dòng "Lửa trường kỳ kháng chiến" đều là xuyên tạc nhằm bôi nhọ Tố Hữu. Nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân cũng nói rằng ông chưa từng gặp những câu thơ này trong các tập thơ Tố Hữu đã đọc sau vài năm sáng tác ra các tác phẩm.
Gia đình
[sửa | sửa mã nguồn]- Phu nhân là Vũ Thị Thanh, nguyên Phó Trưởng ban Ban Tuyên huấn Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương). Mối tình của hai người được khen ngợi là một mối tình đẹp và bà Thanh đã viết hồi ký về Tố Hữu mang tên Ký ức người ở lại. Bà qua đời năm 2012.
- Vợ chồng Tố Hữu có ba người con, hai gái và một trai.
Vinh danh
[sửa | sửa mã nguồn]Tên đường phố
[sửa | sửa mã nguồn]Hiện nay, tên của ông được đặt tên cho một tuyến đường ở Hà Nội, nối từ ngã tư Khuất Duy Tiến - Lê Văn Lương đến ngã tư Vạn Phúc - Đại Mỗ - Thanh Bình. Tại thành phố Đồng Hới, Quảng Bình, đường Tố Hữu là một con đường chính nối ngã tư chợ Ga Nam Lý đến đường Hữu Nghị đi qua bến xe Nam Lý. Tại Huế (Thừa Thiên Huế), đường Tố Hữu là một con đường lớn. Bên cạnh đó, tên của ông còn được đặt cho một tuyến đường dài hơn 3 km trong Khu đô thị mới Thủ Thiêm (Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh).
Trường học
[sửa | sửa mã nguồn]Theo Quyết định số 1199/QĐ-UBND ngày 29 tháng 6 năm 2010 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, Trường THPT Tố Hữu được thành lập trên cơ sở tách Trường THCS và THPT Tố Hữu. Năm 2020, UBND tỉnh Quảng Nam ban hành Quyết định số 3289/QĐ-UBND ngày 24 tháng 11 năm 2020. Theo đó, Trường THPT Nam Giang được đổi tên thành Trường THPT Tố Hữu.
Giải thưởng
[sửa | sửa mã nguồn]Ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Thực ra câu "Ngô nhi tố hữu đại chí" (吾兒素有大志) không phải là của Khổng Tử mà là lời của Đỗ thị (杜氏) nói về con trai của mình là Triệu Khuông Dận (趙匡胤) (陳邦瞻,宋史紀事本末,卷十 金匱之盟 Lưu trữ ngày 20 tháng 9 năm 2020 tại Wayback Machine。[2013年8月14日]。). Nguyên văn như sau: Hán văn: 吾兒素有大志,今果然矣。 Phiên âm Hán Việt: Ngô nhi tố hữu đại chí, kim quả nhiên hĩ. Dịch nghĩa: Con ta sẵn có chí lớn, nay quả nhiên như vậy.
- ^ Lê Quang Hồi (ngày 12 tháng 9 năm 2008). "A Nhic đưa Tố Hữu vượt ngục Đắc Glei". Quân đội Nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2021.
- ^ Liễu Hạnh; Hoài Tiến (ngày 22 tháng 2 năm 2016). "Đầu xuân, đến thăm Ngục Đăk Glei". Báo Kon Tum. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2018.
- ^ Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ, Nhà xuất bản Văn Hoá, 1958
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênnhandan
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênnhandan.vn
- ^ "Thơ của Tố Hữu về Joseph Stalin". BBC tiếng Việt. ngày 31 tháng 10 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2012.
- ^ "Mượn danh nhà thơ Tố Hữu truyền bá quan điểm riêng". VnExpress - Tin nhanh Việt Nam. ngày 29 tháng 11 năm 2004. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2021.
- ^ "LAI NGUYEN AN".
- ^ Tâm Linh (ngày 18 tháng 10 năm 2010). "Bà Vũ Thị Thanh viết hồi ký về Tố Hữu - Mối tình đẹp trong đời và cả trong thơ". Báo Thể thao & Văn hóa. Thông tấn xã Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2021.
- ^ Trí, Dân (ngày 6 tháng 12 năm 2013). "Hà Nội có thêm phố Tố Hữu". Báo điện tử Dân Trí. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2024.
- ^ baotainguyenmoitruong.vn (ngày 13 tháng 6 năm 2022). "TP. Huế: Đường nâng cấp, người dân lo lắng vì sợ ngập". baotainguyenmoitruong.vn. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2024.
- ^ tphcm.chinhphu.vn (ngày 25 tháng 4 năm 2021). "TP Thủ Đức có tên đường Tố Hữu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Thiện Thành..." tphcm.chinhphu.vn. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2024.
- ^ "Thông tin đơn vị".
- ^ baoquangnam.vn (ngày 26 tháng 11 năm 2020). "Đổi tên Trường THPT Nam Giang thành Trường THPT Tố Hữu". baoquangnam.vn. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2024.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Thông tin chi tiết đại biểu quốc hội khóa II, VII: Tố Hữu Lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014 tại Wayback Machine
- Lê Duẩn
- Trường Chinh
- Phạm Văn Đồng
- Phạm Hùng
- Lê Đức Thọ
- Võ Nguyên Giáp
- Nguyễn Duy Trinh
- Lê Thanh Nghị
- Trần Quốc Hoàn
- Văn Tiến Dũng
- Lê Văn Lương
- Nguyễn Văn Linh
- Võ Chí Công
- Chu Huy Mân
- Ủy viên dự khuyết: Tố Hữu
- Võ Văn Kiệt
- Đỗ Mười
- Hoàng Minh Giám (1955–1976)
- Lưu Hữu Phước¹ (1969–1976)
- Nguyễn Văn Hiếu (1976–1986)
- Trần Văn Phác (1986–1990)
- Trần Hoàn (1990–1996)
- Nguyễn Khoa Điềm (1996–2006)
- Lê Doãn Hợp (2006–2007)
- Hoàng Tuấn Anh (2007–2016)
- Nguyễn Ngọc Thiện (2016–2021)
- Nguyễn Văn Hùng (2021–)
- Hoàng Công Khanh
- Hữu Loan
- Lê Đạt
- Nguyễn Hữu Đang
- Phan Khôi
- Phùng Cung
- Phùng Quán
- Quang Dũng
- Thụy An
- Trần Dần
- Trần Đức Thảo
- Văn Cao
- Trương Tửu
- Tử Phác
- Yến Lan
- Trường Chinh
- Nguyễn Chí Thanh
- Tố Hữu
- Xuân Diệu
- Huy Cận
- Nguyễn Đình Thi
- Nguyễn Huy Tưởng
- Phạm Huy Thông
- Trần Hữu Tước
- Đặng Thai Mai
- Hoài Thanh
- Hồng Cương
- Nguyễn Văn Bổng
- Hoàng Trung Thông
- Hồ Đắc Di
- Vũ Đức Phúc
- Ngụy Như Kontum
- Lương Xuân Nhị
- Hằng Phương
- Chính Hữu
- Đoàn Giỏi
- Nguyễn Lân
- Báo Nhân Văn
- Báo Giai Phẩm
- Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam
- Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
- Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam
- BNF: cb12102482c (data)
- GND: 108443612
- ICCU: Italy
- ISNI: 0000 0001 0877 3030
- LCCN: n50016803
- NKC: jn20020726080
- NLP: a0000001095439
- NTA: 190872667
- PLWABN: 9810608766605606
- SUDOC: 031274404
- VIAF: 22198591
- WorldCat Identities (via VIAF): 22198591
Nguồn: Wikipedia tiếng Việt