Giảm thuế hay còn được gọi là sự ưu đãi về thuế, sự nhượng bộ thuế và phần thu nhập được giảm thuế, đây là một phương pháp của việc giảm nghĩa vụ đóng thuế của người nộp thuế. Chính phủ thường xuyên áp dụng phương thức này để kích thích nền kinh tế và gia tăng khả năng thanh toán của người dân bằng cách thực hiện chính sách tài khóa này, chính phủ có có lợi cho việc cư xử mẫu dân số hoặc hành xử chung. Bằng cách tuyên bố giảm thuế, ngân sách nhà nước có thể làm giảm một số khoản thu của chính phủ từ việc thu thuế. Mặt khác, việc giảm thuế mới kích thích nền kinh tế của người dân trong một quốc gia, điều này có thể củng cố sự gia tăng thu nhập bị đánh thuế. Mỗi đợt giảm thuế phải đưa vào hệ thống Lập pháp để được chấp thuận bởi các cơ quan có thể thẩm quyền để việc giảm thuế trở nên hợp lệ. Hầu hết các quốc gia đều cam kết về việc đã phê duyệt các khoản giảm thuế mới như luật thuế với Bộ Tài chính. Việc xác nhận có cần thiết phải thỏa thuận với các cơ quan hành chính hiến pháp khác hay không tùy thuộc vào cơ quan lập pháp của quốc gia đó. Tuy nhiên, theo cách tương tự, việc giảm thuế có thể bị hủy bỏ. Trong một số trường hợp, việc giảm thuế được công bố với một yếu tố hạn chế, điều này cản trở việc tối đa hóa cách sử dụng việc giảm thuế. Ví dụ, một khoản tín dụng thuế được ban hành cho các việc giao dịch mua xe hơi điện. Khoản tín dụng thuế sẽ giảm 10% đối với các giao dịch mua, nhưng hệ số giới hạn thì không thể vượt quá 500$.Việc giảm thuế được sử dụng cho nhiều mục tiêu tiềm năng. Một trong những chuyên đề là cung cấp nhiều sự đảm bảo cho tầng lớp thu nhập thấp. Thu nhập nhiều hơn có được nhờ giảm thuế có thể có khả năng cung cấp cho bộ phận dân cư này một tỷ lệ phúc lợi lớn hơn. Mặt khác, những khoản giảm thuế được sử dụng để thúc đẩy giáo dục, môi trường, chăm sóc sức khỏe, thất nghiệp, thậm chí để hỗ trợ canh tác sinh thái. Những hoạt động tình nguyện, tôn giáo, và các Đảng chính trị địa phương hầu hết được miễn nghĩa vụ đóng thuế.
Một số khoản giảm thuế có thể được thực hiện bằng cách hành động thụ động, nhưng hầu hết các loại giảm thuế này đều yêu cầu một số hành động tích cực để thực hiện. Đối với các khoản giảm thuế đa dạng, chúng rất phức tạp vì các loại giảm thuế này được ban hành bởi Luật Lập pháp và Luật hiện hành nhằm tập trung vào việc giảm thuế. Việc giảm thuế thường xuyên sẽ được thực hiện sau khi gửi yêu cầu đến chính quyền địa phương, tổ chức này có thể xác nhận, từ chối hoặc gửi yêu cầu làm lại. Điều này cũng phụ thuộc vào loại giảm thuế. Một loại thuế có thể xóa bỏ toàn bộ nghĩa vụ thuế nhưng thường có nghĩa là thuế loại trừ. Một loại thuế khác là từ chối trách nhiệm pháp lý của đối tượng và mức tối thiểu không chịu thuế trong một trường hợp cực đoan. Việc này không bao gồm thuế, chỉ thu một khoản tiền nhỏ, mà cả hai khoản thuế này sẽ không cần nộp thuế thu. Một số chủ thể được miễn trừ hoàn toàn thuế. Việc miễn trừ thuế sẽ xảy ra trong một trường hợp không chuẩn ví dụ như thảm họa cục bộ, tê liệt hoặc thành viên chính trong gia đình tử vong, thì việc giảm thuế được sử dụng tối đa bằng cách giảm thu nhập an sinh xã hội, trong khi các cá nhân đang trong những năm nghỉ hưu. Miễn thuế cho công dân đang sống và làm việc ở nước ngoài cũng được thể hiện đáng kể trong khuôn giảm thuế. Mặt khác, miễn thuế thường xuyên nhắm vào hầu hết các loại thuế phổ biến như Thuế xuất thu nhập, Thuế an sinh xã hội, Thuế thu nhập doanh nghiệp và Thuế tiêu thụ đặc biệt. Lợi thế lớn nhất trong việc giảm thuế là loại bỏ hoàn toàn một số loại thu nhập khỏi lợi tức. Các loại thuế nêu trên được áp dụng cho một số chủ thể đóng thuế nhất định. Một khoản giảm thuế mới trong một số trường hợp ngăn không chuyển gánh nặng thuế sang thiên đường thuế.