Đại khủng hoảng (chữ Anh: Great Depression), hoặc gọi Đại khủng hoảng kinh tế thế giới, là cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra từ năm 1929 đến 1933, và được xem là cuộc suy thoái nghiêm trọng nhất trước Đại chiến thế giới lần thứ hai. Giai đoạn này được đặc trưng bởi tỉ lệ thất nghiệp và nghèo đói cao, tính lưu động thị trường suy giảm nghiêm trọng, sản xuất công nghiệp và thương mại sụt giảm mạnh, cùng với làn sóng phá sản hàng loạt của các ngân hàng và doanh nghiệp trên toàn thế giới. Cuộc khủng hoảng khởi nguồn vào năm 1929 tại Hoa Kỳ – nền kinh tế lớn nhất thế giới lúc bấy giờ – với sự kiện sụp đổ thị trường cổ phiếu Phố Wall vào tháng 10 năm 1929, thường được coi là dấu mốc khởi đầu của Đại khủng hoảng. Trong số những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất về thất nghiệp có Hoa Kỳ, Anh Quốc và Đức. Ngược lại, Liên Xô – quốc gia theo chế độ xã hội chủ nghĩa – không bị ảnh hưởng, mà thậm chí còn hoàn thành kế hoạch kinh tế 5 năm đầu tiên (en). Đại khủng hoảng là cuộc suy thoái kinh tế kéo dài lâu nhất, có sức ảnh hưởng sâu rộng nhất và có cường độ thiệt hại lớn nhất trong thế kỉ XX.
Trước Đại khủng hoảng, nền kinh tế thế giới đã trải qua một giai đoạn tăng trưởng công nghiệp và phát triển xã hội, được gọi là "Thập niên 1920 cuồng phong" (en). Đa phần lợi nhuận thu được từ sự bùng nổ kinh tế đã được đầu tư vào đầu cơ tài chính, đặc biệt là trên thị trường cổ phiếu, dẫn đến tình trạng bất bình đẳng phân phối của cải ngày càng gia tăng. Chính sách kinh tế "tự do phóng nhiệm" khiến hệ thống ngân hàng gần như không bị kiểm soát chặt chẽ, dẫn đến tình trạng cho vay tràn lan và nợ nần chồng chất. Đến năm 1929, sức mua suy giảm, kéo theo sự sụt giảm trong sản xuất công nghiệp và tỉ lệ thất nghiệp gia tăng. Giá cổ phiếu vẫn tiếp tục tăng cao cho đến khi thị trường cổ phiếu Phố Wall sụp đổ, sau đó là ba năm suy thoái liên tiếp, khiến niềm tin vào hệ thống tài chính bị lung lay nghiêm trọng. Đến năm 1933, tỉ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ đã lên tới 25%, khoảng 1/3 số nông dân mất đất canh tác, và một nửa trong số 25.000 ngân hàng tại nước này đã phá sản. Chính phủ liên bang Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Herbert Hoover không muốn can thiệp mạnh vào nền kinh tế, khiến tình hình càng trở nên nghiêm trọng. Trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1932 (en), Herbert Hoover thất bại trước Franklin D. Roosevelt, người từ năm 1933 đã thực hiện Chương trình New Deal (Tân Chính sách) với một loạt các chính sách nhằm cứu trợ kinh tế và tạo việc làm. Tại Đức, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào các khoản vay từ Hoa Kỳ. Khi cuộc khủng hoảng lan rộng, tỉ lệ thất nghiệp ở Đức tăng gần 30%, tạo điều kiện thuận lợi cho các phong trào cực đoan trỗi dậy. Điều này đã góp phần đưa Đảng Quốc xã của Adolf Hitler lên nắm quyền vào năm 1933, đặt nền móng cho những biến động chính trị và quân sự dẫn đến Đại chiến thế giới lần thứ hai.
Trong khoảng thời gian 1929–1932, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu ước tính đã giảm 15%. Riêng tại Hoa Kỳ, cuộc khủng hoảng khiến GDP suy giảm tới 30%. Quá trình phục hồi diễn ra không đồng đều trên thế giới: một số nền kinh tế như Hoa Kỳ, Đức và Nhật Bản bắt đầu có dấu hiệu phục hồi vào giữa thập niên 1930, trong khi Pháp vẫn chưa thể quay lại mức tăng trưởng trước khủng hoảng cho đến những năm cuối thập kỉ. Cuộc khủng hoảng này gây ra tác động kinh tế tàn khốc đối với cả nước giàu lẫn nước nghèo. Tất cả đều trải qua suy giảm thu nhập cá nhân, giảm giá cả (giảm phát), mất đi thu nhập chịu thuế và lợi nhuận sụt giảm mạnh. Mậu dịch quốc tế giảm hơn 50%, và tỉ lệ thất nghiệp tại một số nước tăng cao đến 33%. Các đô thị trên toàn cầu, đặc biệt là những nơi phụ thuộc vào công nghiệp nặng, chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Ngành xây dựng gần như đình trệ tại nhiều quốc gia, trong khi các vùng nông thôn và cộng đồng nông dân rơi vào khủng hoảng do giá nông sản giảm đến 60%. Đối mặt với nhu cầu lao động suy giảm và không có nhiều lựa chọn việc làm, những khu vực phụ thuộc vào ngành sản xuất sơ cấp (như khai thác tài nguyên và nông nghiệp) chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất. Đến năm 1939, sự bùng nổ của Đại chiến thế giới lần thứ hai đã chính thức chấm dứt cuộc Đại khủng hoảng khi nền kinh tế chiến tranh thúc đẩy sản xuất công nghiệp. Nhiều phụ nữ gia nhập lực lượng lao động trong khi hàng triệu thanh niên thất nghiệp được huy động vào quân đội, giúp cải thiện tình trạng thiếu việc làm.
Cho đến nay, các học giả vẫn chưa đạt được sự đồng thuận về nguyên nhân chính xác của Đại khủng hoảng. Một số nhà sử học tập trung vào các nguyên nhân kinh tế phi tiền tệ, trong đó có những quan điểm xem sự sụp đổ của thị trường cổ phiếu Phố Wall năm 1929 là nguyên nhân chính. Các nhà kinh tế học theo trường phái thị trường tự do cho rằng những chính sách điều tiết sai lầm của chính phủ đã làm trầm trọng thêm cuộc suy thoái, biến một cuộc suy thoái kinh tế bình thường thành Đại khủng hoảng kinh tế. Ngược lại, những nhà kinh tế theo trường phái can thiệp nhà nước coi Đại khủng hoảng là bằng chứng cho thấy những hạn chế của thị trường tư bản chủ nghĩa, từ đó kêu gọi sự quản lí và can thiệp mạnh mẽ hơn từ chính phủ nhằm ổn định nền kinh tế. Còn theo chủ nghĩa Marx–Lenin, nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản của chế độ tư bản chủ nghĩa, cụ thể là sự đối lập giữa tính xã hội hoá của sản xuất và chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, một số khác lại cho rằng, sự sụp đổ này chỉ là hệ quả của những xu hướng kinh tế bất ổn đã manh nha từ cuối thập niên 1920. Một trường phái đối lập, xuất hiện và dần chiếm ưu thế từ cuối thế kỉ XX, nhấn mạnh vai trò của chính sách tiền tệ yếu kém trong việc kéo dài và làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng. Theo quan điểm này, dù các xu hướng kinh tế chung có thể giải thích sự suy thoái ban đầu nhưng chúng không thể lí giải mức độ nghiêm trọng và thời gian kéo dài của khủng hoảng. Các học giả thuộc trường phái này lập luận rằng chính sự phản ứng không đủ mạnh trước những cuộc khủng hoảng thanh khoản sau cú sốc kinh tế năm 1929 đã khiến hệ thống ngân hàng sụp đổ, kéo theo sự tan rã của thị trường tài chính và làm suy thoái kinh tế kéo dài hơn mức cần thiết.
Những lí thuyết hiện đại về nguyên nhân hình thành và diễn biến của cuộc Đại khủng hoảng chủ yếu dựa trên phân tích của chủ nghĩa Keynes và chủ nghĩa tiền tệ, đồng thời có những mở rộng mới được phát triển sau này. Giới học thuật đạt được sự đồng thuận rằng cuộc suy thoái ban đầu năm 1929 sẽ không leo thang thành một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nếu các ngân hàng trung ương ngăn chặn được sự thu hẹp cung tiền và hỗ trợ thanh khoản để giảm nhẹ các cuộc khủng hoảng ngân hàng. Hai yếu tố chính góp phần lan rộng khủng hoảng trên toàn cầu là chính sách xuất khẩu khủng hoảng thông qua chế độ tiền tệ bản vị vàng và chủ nghĩa bảo hộ gia tăng mạnh mẽ trong thời kì Đại khủng hoảng.